[Series bài] Bàn về sự học, sự dạy & giáo dục - TẬP 3: HỌC ĐỂ LÀM GÌ?
𝗧𝗮̣̂𝗽 𝟯: 𝗛𝗢̣𝗖 Đ𝗘̂̉ 𝗟𝗔̀𝗠 𝗚𝗜̀? – 𝟭 𝗰𝗮̂𝘂 𝗵𝗼̉𝗶 𝗰𝗮̂̀𝗻 𝗽𝗵𝗮̉𝗶 𝘁𝗿𝗮̉ 𝗹𝗼̛̀𝗶 𝗻𝗵𝘂̛𝗻𝗴 𝗵𝗶𝗲̂́𝗺 𝗸𝗵𝗶 𝗺𝗼̣𝗶 𝗻𝗴𝘂̛𝗼̛̀𝗶 𝗵𝗼̉𝗶…
Đi từ những trải nghiệm cá nhân và đã trả lời câu hỏi “sự học là gì”, lần này mình muốn đi sâu hơn với 1 phần trong định nghĩa của sự học, đó là “HỌC ĐỂ LÀM GÌ?” bằng cách tiếp cận từ nhiều quan điểm mô hình khác nhau. Bằng việc xác định được rõ mục đích, mỗi người học sẽ tự tạo cho mình một bộ động lực đế tiếp tục quá trình học tập của mình một cách động lập và chủ động.
Từ những ngày đầu của Triết học, các triết gia như Plato hay Aristotle đã luôn ý thức về những thành tố khác nhau trong con người. Không giống như các loài động vật khác, con người có nhiều thành phần cần được trau dồi và nuôi dưỡng qua thời gian, cụ thể là 4 phần:
(1) Thân thể
(2) Trí não
(3) Tinh thần
(4) Tâm hồn.
Và những thành phần này cần những cách riêng để phát triển, và việc phân hóa này đặt nền tảng cho việc phân hóa các môn học trong trường học từ thời Athens đến nay. Trong cuốn “Nicomachean Ethics”, Aristotle có liệt kê lợi ích của việc học nhiều môn học khác nhau. Ví dụ, nếu Toán học giúp con người trau dồi suy nghĩ logic và khả năng xử lý con số, nghệ thuật giúp tâm hồn của con người được phóng phú và tinh thần được thoải mái hơn. Con người, vì thế, cần ‘học’ nhiều môn học để phát triển một cách toàn diện về mọi mặt. Tuy nhiên, sự đa dạng hóa đó vẫn cần phải có 1 mục đích chung, cũng là mục đích cao cả nhất của giáo dục: TẠO RA 1 XÃ HỘI VĂN MINH mà ở đó con người trân trọng cuộc sống và các mối quan hệ trong xã hội.*
Một mô hình hướng tới sự phát triển toàn diện như trên được tìm thấy tại mô hình “4 trụ cột của giáo dục thế kỷ 21”. Theo Jacques Delors (2001) đế xuất với UNESCO về định hướng giáo dục của thế kỷ 21, người học cần được giáo dục vì 4 mục đích:
(1) học để hiểu – learn to know
(2) học để làm – learn to do
(3) học để chung sống – learn to live together
(4) học để thành người – learn to be.
Riêng vấn đề về học để sống chung với nhau liên quan đến phạm trù đạo đức mà mình nghĩ sẽ là điều khó dạy và khó học nhất nếu không có sự đồng thuận của toàn bộ mọi người trong cùng 1 xã hội.**
Gần đây, thầy Giản Tư Trung có một bài chia sẻ chuyên sâu về mục đích của việc học cũng rất đáng lưu tâm. Theo thầy, sự học là một quá trình khai minh mà ở trong đó con người “học thật”, “làm thật”, và trở thành “con người thật”. “Thật” ở đây được đo bằng các giá trị khác nhau tùy vào cách chúng ta nghĩ về bản chất của việc học. Nếu học là để có - learn to have hay để cho đi - learn to give thì chúng ta học tâp để tìm ra giá trị đóng góp cho xã hội, cụ thể là giải quyết được các vấn đề trong XH. Nếu học là để trở thành người – learn to be (idea này hao hao mô hình 4 pillars của UNESCO) thì mục đích sau cùng là sự khai minh – hay có thể hiểu là sự khai phóng. Ở đây, thầy có đưa ra định nghĩa văn minh hơn về khái niệm ‘giáo dục khai phóng’ chứ không phải khai phóng đơn thuần là tự do, thích làm gì làm. ***
Nhìn chung, để con người có thể kéo dài việc học trong một thời gian dài, tốt nhất là suốt cả cuộc đời, thì người học cần nhận thức rằng sự học của họ có lợi cho chính bản thân họ cũng như toàn xã hội. Trong quá trình tích lũy kiến thức, mỗi cá nhân được khai sáng và mở rộng nhận thức về vị thế của mình với xã hội đồng thời được khai phóng khỏi thế giới vô minh để chạm đến các giá trị thật hơn. Và những cá nhân phát triển như vậy sẽ mang lại một xã hội phát triển và văn minh hơn.
Để nhận thức ‘sự thật học”, mình thấy có 1 mô hình rất hữu ích ở dưới đây: “A triadic analysis of self-regulated functioning” trích từ 1 bài phân tích về sự tự học. “Sự học” cần tương tác qua lại giữa 3 yếu tố:
(a) cá nhân người học,
(b) hành vi thể hiện
(c) môi trường bên ngoài.
Để điều khiển được sự học của bản thân, một người cần nhận thức được sự phát triển nội sinh (endogenous) và sự phát triển ngoại sinh (exogenous). Môi trường sẽ có những input tác động vào Self để thúc đẩy sự phát triển của Self, từ đó Self sẽ có output ra lại môi trường qua các hành vi của mình. Sự thay đổi hành vi, nếu đạt một độ mạnh nhất định, sau đó có thể ảnh hưởng ngược lại tới môi trường. Nhận thức được cơ chế trên, người học cần phải thực hành phản tư (self-reflection) về sự thay đổi của các biến số trong biểu đồ trên để thu thập được các bằng chứng về sự thật học của mình. Từ đó, chính người học sẽ có khả năng tự dẫn dắt và định hướng bản thân mình trong việc học, và chính thức có thể tiến gần hơn đến việc thành chuyên gia về chuyện học. Đây là 1 task về xây dựng METACOGNITION (siêu nhận thức) mà cần được bồi đắp qua thời gian và rất may mắn là bài phân tích này có sẵn 1 bộ câu hỏi cho các bạn tự vấn đây nhé.****
Nốt bài đặt vấn đề hơi nặng lý thuyết này nhé để bữa sau nói về những điều thực tiễn hơn là học làm sao và dạy làm sao để phát triển sự học thật.
Reference:
* Aristotle (1944) “Politics”, trans. Harris Rackham. Cambridge, MA: Harvard University Press.
(1975) “Nicomachean Ethics”, trans. Harris Rackham. Cambridge, MA: Harvard University Press.
**Jacques Delors (1996) “Report to UNESCO of the International Commission on Education for the Twenty-first Century” https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000109590
*** Giản Tư Trung (2021): https://youtu.be/bQTmY1fFqWg + sách “Đúng việc”
**** Paul Kirschner (2020) “Why independent learning is not a good way to become an independent learner” https://www.researchgate.net/publication/339261869_Why_independent_learning_is_not_a_good_way_to_become_an_independent_learner


Comments
Post a Comment