Giáo viên IELTS chỉ cần cao chấm là đủ?
Gửi đến các thầy cô đã, đang và sẽ dạy #IELTS
Mình chia sẻ từ góc nhìn và kinh nghiệm của một người không
chuyên sư phạm, đá trái sân qua dạy IELTS và phát triển lên dạy tiếng Anh. Mình
tạm gọi đây là chặng đường từ một người học tốt dần phát triển chuyên môn về ngôn
ngữ và sư phạm, và vẫn đang trau dồi thêm.
1/ IELTS cao chấm là điều kiện cần, không phải là tất cả.
Việc bạn đạt điểm IELTS từ 7.0 trở lên chỉ đủ chứng tỏ bạn là
một người dùng TỐT – RẤT TỐT ngôn ngữ tiếng Anh trong môi trường mà tiếng Anh là
ngôn ngữ giao tiếp chính. Ngoài Ai-eo thì bạn còn các chứng chỉ tiếng Anh khác
như CPE & CAE cũng của Cambridge cấp bằng. Mình nghĩ đây là khởi điểm chung
của rất nhiều GV IELTS, trong đó có mình, là từ một người dùng tốt, người học
giỏi. Ở đây, chứng chỉ IELTS chỉ đơn giản là giấy thông hành giúp bạn đủ tiêu
chuẩn bước vào môi trường giảng dạy tiếng Anh. Và nếu bạn biết rõ IELTS thì bạn
cũng chỉ đơn giản là 1 người IELTS-biết-tuốt.
Nếu bạn chỉ dừng lại ở tấm giấy thông hành này thì bạn chưa đủ
kiến thức, kỹ năng và năng lực để thành 1 gv đúng chuẩn (qualified). Đương nhiên,
bạn có thể lập luận rằng tôi chỉ cần 2-3 chấm cao hơn học viên của mình là an toàn,
nhưng mình thấy như vậy thì có lỗi với người học và nghề sư phạm quá. Ví dụ, HV
hỏi bạn tại sao trong mệnh đề “If I were…” (unreal present conditional) thì “were”
lại không phải là “was” thì sẽ khó cho bạn đưa ra lời giải đáp thỏa đáng nếu không
có kiến thức ngôn ngữ Anh.
2/ “Lò luyện đơn” IELTS.
Bạn có thể chống chế lại lập luận trên của mình bằng cách lấy
cớ là HV chỉ cần “luyện” cho có tấm bằng Ai-eo lả được, chi mà phải cầu kì. Nghe
thì có vẻ rất đặt HV làm trung tâm (student-centered) nhưng thật ra là lỗi ngụy
biện đấy. Mỗi HV có một nhu cầu học khác nhau dựa trên năng lực hiện tại, mục
tiêu đặt ra, động lực và môi trường học rất khác nhau, nên việc sàn lọc HV bằng
bài test đầu vào (entry test) là chưa đảm bảo được nhu cầu của HV có thể được đáp
ứng nếu GV đứng lớp không có kỹ năng về ngôn ngữ và sư phạm. Nếu HV đã và đang
mất phương hướng thì việc GV nhồi nhét “luyện đề” thật ra là đang hại HV nhiều
hơn là giúp HV, và đây không phải là student-centeredness. HV chỉ nên được trao
quyền khi thật sự họ hiểu họ cần làm gì, và đó là nền tảng của self-guided
learning (tự học có định hướng).
3/ Phát triển về kiến thức và kỹ năng.
Bằng cấp và kinh nghiệm là 2 con đường cơ bản nhất cho quá
trình phát triển năng lực chuyên môn của GV (professional development).
a.
Bằng đại học (degree): Bạn có thể chọn hướng
nghiên cứu kiến thức chuyên sâu, mang tính học thuật cao bằng việc học bằng cấp
sư phạm từ cử nhân lên sau đại học. Mình không theo hướng này nhưng thông qua
trao đổi và tiếp xúc với các đồng nghiệp có bằng cử nhân/ thạc sĩ về TESOL hay
Applied Linguistics thì vốn kiến thức chuyên môn của họ được đào sâu rất nhiều.
nhiều hơn mức cần có để giảng dạy 1 lớp General English hay 1 lớp IELTS. Nếu
thuần phát triển theo hướng này thì đa phần các bạn sẽ trở thành chuyên gia ở 1
lĩnh vực cụ thể nào đó.
b.
Chứng chỉ giảng dạy TA (certificate): TESOL/CELTA/TKT
cho GV mới và DELTA cho GV có kinh nghiệm hơn. Những chứng chỉ này có thể nói là
con đường ngắn (nhưng vẫn cực như thường nhé) cho bạn tiếp cận với kiến thức ngôn
ngữ và kỹ năng sư phạm. Các chứng chỉ này không thể nào cung cấp chuyên sâu kiến
thức bằng 1 tấm bằng đại học nhưng có nhiều cơ hội thực hành hơn và được thẩm định
hơn.
c.
Kinh nghiệm (learn on the job): Việc bạn bước vào
1 nghề mới và phát triển kinh nghiệm không có gì là mới. Trong môi trường sư phạm
thì việc này càng tiện vì mạng lưới GV cũng khá là dạy đặc, chủ yếu là các bạn
tìm cơ hội network và trao đổi thêm. Ngoài ra, các trung tâm TA/ trường đều có
chính sách dự giờ (observation) để tăng cường peer learning
Theo kinh nghiệm của mình thì mình thấy việc học CELTA sau một
thời gian ngắn đi dạy giúp mình tiếp thu kiến thức từ chứng chỉ này tốt và nhanh
hơn. Mình cũng có góc nhìn thực tiễn và phân tích được sâu sắc hơn khi tiến lên
DELTA.
Cambridge có một khung tham chiếu về phát triển năng lực GVtiếng Anh để các bạn tham khảo nha. Tương ứng cũng có các chứng chỉ về phát triển
chuyên môn tương ứng.
Các bạn có thể bảo mình bị Cambridge “bùa lú” nhưng tạm thời
thì mình trình bày góc nhìn phổ thông nhất, còn lại thì mình cũng rất welcome các
chia sẻ của các thầy cô có những kinh nghiệm khác về professional development nha.
4/ Self-reflection (phản tư)
Tất cả những sự trau dồi trên cần có thời gian thẩm thấu, và
mình thấy việc thường xuyên làm self-reflection cũng như nhận được constructive
feedback từ HV cũng như đồng nghiệp cũng giúp tạo nền tảng vững hơn cho mình. Phải
thú thật là có khoảng thời gian mình lười đi training lắm (vì bị burn out) nhưng
mỗi lần được dự 1 buổi internal training là thấy refreshing hẳn. Ngoài ra thì mình
cũng may mắn có 1 mạng lười các bạn đồng nghiệp rất sẵn sàng trao đổi chuyên môn
với mình.
5/ Đặt nhu cầu của người học làm trung tâm (Need-based
teaching)
Đây là điều mình thấm thía nhất từ DELTA M2. Mọi thứ mình lên
kế hoạch và thực hiện trên lớp đều xoay quanh câu hỏi là “điều này giúp gì cho
những người học trong lớp này của mình”. Phân tích learners’ needs là 1 công việc
siêu tốn công, và lên giáo án dựa trên needs thế này thì phải dự trù khá nhiều điều,
nhất là hoạt động phân hóa cho các HV ở năng lực khác nhau (differentiation),
nhưng nhờ vậy mà mình có được tư duy hoán vị khi dạy học. GV thường có xu hướng
dạy dựa trên thế mạnh của mình mà quên mất rằng nhân vật chính của lớp học là HV.
Mình chia sẻ 1 bài giới thiệu về kỹ năng này dành cho DELTA candidates nhưng GV
cũng có thể làm theo hen.
Để hiểu rõ hơn learners’ needs cho HV IELTS ra sao thì mọi
người xem lại post trước của mình về chủ đề “Người học IELTS cần gì”
6/ Hãy tạo môi trường học như cách mà bạn đã từng học thật
tốt
Mình xin phép tách riêng môi trường học thành 1 nhánh vì mình
nghĩ yếu tố này không chỉ được quyết định bởi trình độ của GV mà còn bởi kinh
nghiệm và triết lý giáo dục của mỗi GV. Góc nhìn của mình là mình tạo ra 1 môi
trường học tốt theo cách mình đã từng trải qua vì môi trường đó đã từng giúp mình
học tiếng Anh rất hăng say và đạt kết quả tốt. Tâm niệm này được trau chuốt và
chọn lọc hơn sau khi mình có nhiều kinh nghiệm thực tế và đọc thêm các nghiên cứu
khoa học. Ví dụ, mình rất thích chơi game khi học hahaha nên mình đã thiết kế khá
nhiều trò chơi liên quan tới IELTS tasks; tuy nhiên, ban đầu đưa game vào thì bị
sự cố là HV làm không nổi, nên mình đã tìm thêm cách để scaffolding hiệu quả hơn
để cho game đạt hiệu quả cao hơn.
Trên đây là kinh nghiệm lược gọn của mình và mình mong những
chia sẻ cùng với biểu đồ tóm tắt này sẽ giúp các bạn GV IELTS, nhất là những bạn
mới vào nghề, có thêm định hướng phát triển.
Vì một môi trường dạy thực, học thực! Vì những GV có tâm, có
tầm!
#todayNguyenshares


Comments
Post a Comment