"London Bridge is dowwwwwn"
“LONDON BRIDGE IS DOWN”
Đây là mật hiệu được phát đi để ám chỉ việc triển khai kế hoạch an táng cho Nữ hoàng Elizabeth II. Và vào ngày 08/09/2022 thông điệp này đã được phát đi. Việc nguyên thủ quốc gia (head of state) của Vương Quốc Anh qua đời đương nhiên sẽ để lại rất nhiều thay đổi cho quốc gia này, ví dụ gần nhất là sự lên ngôi của Vua Charles III, tiền Bảng được in lại, hay việc quốc ca Anh sẽ kết thúc bằng “God save the King” thay vì Queen, nhưng phạm vi bài viết này sẽ tập trung vào những biến động về quyền lực mềm (soft power), ngoại giao công chúng (public diplomacy) và định vị thương hiệu (nation branding) của UK gây ra bởi sự kiện này.
Nữ hoàng Elizabeth II được nhiều học giả và báo chí đánh giá là biểu trưng cho sức mạnh mềm của UK. Ví dụ như, Sean O’Grady (1) đánh giá hình ảnh của Nữ hoàng là đỉnh cao trong cách thức xây dựng và triển khai quyền lực mềm, từ việc bà có thời gian trị vì dài (70 năm) thể hiện một nước Anh truyền thống lâu đời cho tới những hành vì, cử chỉ chính trực và được lòng dân của bà. O’Grady cũng cho rằng bà là một nhân tố quan trọng trong việc gắn kết dân tộc của toàn thể Liên hiệp Anh (gồm 4 nước đã có lịch sử xung đột với nhau). Trong một thống kê bằng video của The Economist gần đây, phần trăm dân số Anh ủng hộ Hoàng gia Anh nói chung và Nữ hoàng nói riêng luôn trên 60% tuy rằng con số này có phần sụt giảm và biến động theo dòng sự kiện lịch sử (2). Cũng trong video này, Catherine Nixey – phóng viên của The Economist – mở rộng thêm về tính gắn kết của Nữ hoàng là ở mức độ Khối Thịnh Vượng Chung (The Commonwealth) – liên minh được lập ra để phần nào duy trì sự cai tri của UK trên thế giới dù điều này còn nhiều tranh cãi. Nữ hoàng Anh thật chất trị vì thêm 14 quốc gia khác và tất cả các thành viên của The Commonwealth này đều chịu sự ảnh hưởng của bà. Với 1 góc nhìn toàn cầu hơn, khảo sát của IPSOS (2018) cho thấy thái độ tích cực của dân chúng thuộc 28 quốc gia ngoài Liên hiệp Anh dành cho Hoàng gia Anh, trong đó Nữ hoàng dẫn đầu danh sách sách thành viên hoàng gia Anh được yêu thích nhất (3)
Tuy nhiên, như giáo sư Gary Rawnsley đã hoài nghi, việc bị thu hút (attraction) và bị ảnh hưởng (influence) là 2 vấn đề không giống nhau và thầy cho rằng Nữ hoàng cũng như Hoàng gia Anh chỉ có thể dừng lại ở điều đầu tiên (4). Với nền Quân chủ lập hiến, chúng ta hiểu rằng chức vị nguyên thủ quốc gia của Nữ hoàng không làm thay đổi chính sách, nhưng không thể phủ nhận việc bà là biểu tượng kết nối của UK với các quốc gia kể trên. Vì việc không liên kết với chính sách đối ngoại và cũng không nằm trong hoạch định ngoại giao của UK, mình cho rằng sự ra đi của Nữ hoàng Anh chỉ có nghĩa là UK mất đi một nguồn lực (resource) để có thể khai thác sức mạnh mềm, theo hướng là tăng tính thu hút (attraction), chứ không phải bám theo sát nghĩa cách mà Joseph Nye định nghĩa về quyền lực mềm. Cụ thể, Nye cho rằng các quốc gia có thể đạt được mục đích chính trị của mình thông qua sự lôi cuốn, bên cạnh sức mạnh từ kinh tế và quân sự. Ở đây, chúng ta không thể chứng minh được tác động nhân quả của việc bị lôi cuốn bởi Nữ hoàng và thay đổi chính sách theo hướng chính phủ Anh muốn. Và trường hợp tương tự diễn ra với rất nhiều những nguồn lực sức mạnh mềm khác như BTS của Hàn Quốc hay Giá trị dân chủ của Hoa Kỳ. Chính điều này cho thấy lỗ hỏng về định nghĩa cũng như việc không phù hợp khi dùng sức mạnh mềm để giải thích về sức hút của Nữ hoàng. Đây là sự thiếu sót nói chung của những học thuyết theo CN Thực chứng (positivism) trong nỗ lực đưa ra các lý thuyết mang tính giải thích cao.
Nếu có thể nói về sự liên quan của Nữ hoàng đến UK soft power thì nên nhắc đến sự đoàn kết dân tộc cho bà tạo ra từ đó giúp định danh dân tộc cao hơn (national identity) và từ đó việc lan tỏa giá trị dân tộc cao hơn.
THƯƠNG HIỆU QUỐC GIA (Nation Brand & Nation branding)
Một cách khác để nhìn nhận tầm ảnh hưởng của Nữ hoàng đến chính sách đối ngoại và hình ảnh của UK là khái niệm thương hiệu quốc gia (Nation Brand), cụ thể hơn thì Nữ hoàng đóng góp 1 phần quan trọng trong quá trình xây dựng Brand UK từ sau Chiến tranh Thế giới thứ 2 đến nay. Sự khác biệt lớn nhất giữa Quyền lực mềm và Định vị thương hiệu là việc thương hiệu có thể xây dựng từ xấu thành tốt, thương hiệu được đặt trong một môi trường cạnh tranh như cách chúng ta tư duy về thị trường, và thương hiệu có thể lượng hóa được bằng cách theo dõi các nguồn lực (5).
Theo nhiều bảng thống kê về thương hiệu như Pew Research, Soft Power 30, hay Nation Brand Index thì Nữ hoàng Anh luôn được trích dẫn là yếu tố làm tăng giá trị thương hiệu của UK (Lưu ý: để tên Soft power nhưng cách tiếp cận là của Nation Brand). Ví dụ, trong năm 2021, dù bị ảnh hưởng bới Brexit và chính quyền thất thường của ông Boris Johnson, Nữ hoàng Elizabeth II vẫn giúp UK trụ hạng trong top 3 thương hiệu và nhất là cứu rỗi được hạng mục về Chính quyền (6).
Dựa trên khung phân tích của Simon Anholt (2013) về Nation Branding, Nữ hoàng Anh là 1 brand đáng tin cậy (credibility) (7).
a. Chất lượng (Substance): Nữ hoàng Anh sống một đời gương mẫu và cống hiến, chuẩn xác như lời tuyên bố của bà vào những năm 1940 rằng mình sẽ dành cả cuộc đời phục vụ dân chúng (dân chúng ở đây là tất cả các quốc gia thuộc cai trị của Đế quốc Anh). Dù Đế quốc Anh bước vào giai đoạn thoái trào và diệt vong nhưng không vì thế mà dân chúng Anh và các quốc gia trong Commonwealth ghét bỏ Hoàng gia Anh do hình ảnh gần gũi mà Nữ hoàng mang lại (8). Sự tồn tại song song một cách hòa bình giữa Hoàng gia và Chính quyền dân sự, cơ sở của nền Quân chủ chuyên chế của UK, là biểu tượng cho sự tín nhiệm cho một chính quyền truyền thống (“traditional”) và lâu đời. Giá trị thời gian vì thế được đánh giá cao trong trường hợp này.
b. Những hành động mang tính biểu tưởng (symbolic acts): Như giải thích ở trên, việc Nữ hoàng không có quyền hành về chính sách dẫn đến sự xuất hiện của bà mang tính lễ nghi và là biểu tượng gắn kết nhiều hơn. Ví dụ, việc Nữ hoàng viếng thăm Ronald Reagan để hỗ trợ Thatcher trong việc giành Đảo Falklands hay chuyến công du tới Nam Phi khi nước này chính thức gia nhập khối Commonwealth. Ngoài ra, Nữ hoàng cũng giúp gắn kết giữa đế quốc Anh hào hùng và nước Anh cấp tiến, giữa dân chúng Anh và dân chúng của các quốc gia từng có lịch sử gắn kết với Anh. Đương nhiên, những hành động này sẽ luôn vấp phải những chỉ trích từ trường phái hậu thuộc địa (post-colonialism), nhưng việc gây tiếng vang là điều không thể chối cãi và nhìn chung thì sự nhận thức thương hiệu (brand awareness).
c. Chiến lược (strategy): Phần này thật chất khó có thể phân tích được sự liên kết giữa chiến lược ngoại giao UK và hình ảnh của Nữ hoàng vì về bản chất thì Chính quyền dân sự không thể liệt kê Hoàng gia là công cụ triển khai chiếc lược để đạt được lợi ích quốc gia. Theo tìm hiểu của mình thì không có văn bản nào của chính phủ nói về điều này. Sự thiếu sót này dẫn tới việc chúng ta cần thêm 1 công cụ nữa để hiểu rõ hơn về bức tranh lớn hơn giữa Nữ hoàng và chính sách đối ngoại UK. Và đó chính là ngoại giao công chúng, sẽ được bàn tới ngay sau đây.
NGOẠI GIAO CÔNG CHÚNG (Public Diplomacy)
Nếu chỉ dừng lại ở việc đánh giá Nữ hoàng là 1 phần trong thương hiệu UK thì có hơi “chợ” quá. Sẽ là đơn giản hóa chính quyền nếu coi mỗi quốc gia là 1 thương hiệu và đi rao bán trên thị trường như cách mà Nation Branding thể hiện. Thay vào đó, các học giả quan hệ quốc tế cho rằng ngoại giao công chúng sẽ đòi hòi nhiều tính toán chiến lược để tiếp cận công chúng quốc tế hơn là chỉ đi chào mời thương hiệu (9). Theo Golan (2013), chúng ta có thể kết hợp Nation Branding là sản phẩm cho tầm nhìn trung hạn của một chiến lược lớn về Ngoại giao công chúng của 1 quốc gia, trong đó bao gồm ngắn hạn (mediated diplomacy), trung hạn (nation branding) và dài hạn (relationship building). Góc nhìn này sẽ định vị được chính xác hơn vai trò của Nữ hoàng với Chính sách đối ngoại của UK ra sao.
Phân tích cụ thể hơn về công dụng thì Alex Penler có cho rằng Hoàng gia Anh, quan trọng nhất là Nữ hoàng, đóng vai trò truyền bá, cổ động (advocacy) – Đây là 1 trong 5 thành tố cơ bản của NGCC theo khung phân tích của giáo sư Nick Cull (11). Cụ thể Penler phân tích về cách mà Hoàng gia Anh biểu trưng cho các mặt khác nhau của đời sống văn hóa, xã hội và lịch sử của UK, từ đó nâng cao vị thế cùa UK qua các hoạt động tuyên truyền của Hoàng gia. Điều này tạo ra hiệu ứng kiểu nhìn thấy Nữ hoàng là nghĩ tới UK và ngược lại. Ngoài ra, Penler cũng cho rằng Nữ hoàng có thể là biểu tượng hòa giải hiềm khách đô hộ trong quá khứ thông qua các chuyến viếng thăm các quốc gia hậu thuộc địa như một hình thức lắng nghe (listening) công chúng quốc tế. Lắng nghe được cho là bước đi cơ bản nhất để có được sự thành công trong NGCC (12). Tuy nhiên, vai trò này của Nữ hoàng là chưa thuyết phục vì sự lắng nghe của Nữ hoàng không đại diện cho chính quyền Anh và không có tính chính danh. Thay vào đó, mình đánh giá là giá trị lớn nhất của Nữ hoàng trong NGCC của UK là việc phi chính trị hóa trong truyền tải thông điệp về UK cho thế giới với tư cách của 1 người liên quan trực tiếp đến nhà nước UK. Với các thông điệp phi chính trị (apolitical message) như về hòa bình nhân loại hay chung tay vì môi trường thì công chúng thế giới sẽ dễ có xu hướng chấp nhận hơn. Việc tránh né chính trị trong NGCC là một xu hướng chung của nhiều quốc gia, đặc biệt là khi NGCC được ra đời trong hoàn cảnh mà chính quyền Mỹ cần một công cụ “thiện lành” hơn khái niệm tuyên truyền (propaganda) (13).
Kết hợp cả Nation Branding và Public Diplomacy thì Nữ hoàng Elizabeth II có thể được xem là một thương hiệu uy tín và có tính chính danh thể hiện qua sự ủng hộ của dân chúng trong nước, nằm trong chiến lược ngoại giao công chúng dài hạn của UK một cách không quá lộ liễu để bị vướng phải các cáo buộc về tuyên truyền.
Tài liệu tham khảo:
(2) https://youtu.be/lE-mJBWNXXw
(3) https://www.ipsos.com/en-au/global-views-royal-family
(5) Anholt, S. (2020). The Good Country Equation: How We Can Repair the World in One Generation, Berrett-Koehler Publishers.
(6) https://brandfinance.com/press-releases/uk-ranked-3rd-in-world-for-soft-power-prowess
(7) Anholt, S. (2013). "Beyond the Nation Brand: The role of Image and Identiy in International Relations." Exchange: Journal of Public Diplomacy 2(1): 6-12.
(10) Golan, G. J. (2013). "An Integrated Approach to Public Diplomacy." American Behavioural Sciences 57(9): 1251-1255.
(12) Cull, N. J. (2019). Public Diplomacy: Foundations for Global Engagement in the Digital Age. Cambridge, Polity.
(13) Cull, N. J. (2009). 'Public Diplomacy before Gullion: The evolution of a phrase'. Routledge Handbook of Public Diplomacy. N. Snow and P. Taylor. Oxon & New York, Routledge: 19-23.


Comments
Post a Comment